Hậu sản thường và cách chăm sóc
23/09/2016Thời kì hậu sản về phương diện giải phẫu là sáu tuần lễ ( 42 ngày) kể từ sau khi đẻ vì những người không cho con bú kinh nguyệt có thể xuất hiện trở lại.
I. Những hiện tượng giải phẫu và sinh lí:
1. Định nghĩa:
Khi có thai cơ quan sinh dục và vú phát triển dần, sau khi đẻ các cơ quan trên ( trừ vú) dần dần trở lại bình thường. Thời gian trở lại bình thường các cơ quan sinh dục về mặt giải phẫu và sinh lí gọi là thời kì hậu sản. Thời kì hậu sản về phương diện giải phẫu là sáu tuần lễ ( 42 ngày) kể từ sau khi đẻ vì những người không cho con bú kinh nguyệt có thể xuất hiện trở lại.
2. Thay đổi ở tử cung:
2.1 Thay đổi ở thân tử cung:
- Sau khi đẻ tử cung thay đổi rất rõ ràng, trên lâm sàng nhận thấy 3 hiện tượng:
- Sự co cứng tử cung sau sổ rau, tử cung co cứng để thực hiện tắc mạch sinh lí, trên lâm sàng tử cung co thành khối chắc gọi là khối an toàn.
- Sự co bóp tử cung trong những ngày đầu sau đẻ, tử cung có những cơn co bóp để tống sản dịch ra ngoài. Trên lâm sàng thỉnh thoảng sản phụ có cơn đau tử cung và sau mỗi cơn đau có ít máu cục và sản dịch chảy ra ngoài qua đường âm đạo.
- Sự co hồi tử cung: Ngay sau khi đẻ tử cung ở trên khớp vệ khoảng 13cm và cứ trung bình mỗi này tử cung co hồi được khoảng 1cm, nhưng trong những ngày đầu tử cung co hồi nhanh hơn và 13 ngày sau đẻ thường không sờ được tử cung trên khớp vệ nữa.
2.2 Thay đổi ở cơ tử cung:
Lớp cơ ở thân tử cung sau đẻ dày khoảng 1cm nhưng sau đó mỏng dần do sự đàn hồi của các sợi cơ, một số sợi cơ thoái hoá mỡ và tiêu đi.
2.3 Thay đổi ở phúc mạc tử cung và thành bụng:
Sau đẻ tử cung co nhỏ lại, lớp phúc mạc cũng co lại thành nhiều lớp nhăn, và những nếp nhăn này dần dần sẽ mất đi nhanh chóng vì phúc mạc co đi và teo lại.
ở thành bụng các vết rạn da vẫn còn tồn tại, các cơ thành bụng cũng co dần lại. Các cân và đặc biệt cân cơ thẳng to cũng co dần lại nhưng thành bụng vẫn nhão hơn so với khi chưa có thai, đặc biệt là ở những người đẻ nhiều lần, đẻ thai to, đa ối.
2.4 Thay đổi ở niêm mạc tử cung:
Niêm mạc tử cung sau đẻ sẽ diễn biến qua 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn thoái triển: Trong 14 ngày đầu sau đẻ, các ống tuyến và các sản bào thoát ra ngoài cùng với sản dịch.
+ Giai đoạn phát triển: Các tế bào trụ trong các đáy tuyến sẽ phát triển dưới ảnh hưởng của Estrogen và Progesteron, khoảng 6 tuần đầu để niêm mạc tử cung được tái tạo hoàn toàn và thực hiện chu kì kinh nguyệt đầu tiên sau đẻ.
2.5 Thay đổi ở các phần phụ âm đạo âm hộ:
- Các dây chằng tử cung, vòi trứng, buồng trứng sau khi đẻ dần dần trở lại bình thường về hướng, vị trí và độ dài.
- Âm hộ, âm đạo bị giãn căng trong khi đẻ cũng co dần lại vào khoảng 15 ngày sau đẻ trở lại bình thường.
- Màng trinh sau đẻ bị rách chỉ còn di tích của rìa màng trinh.
2.6 Thay đổi hệ tiết niệu:
Sau khi đẻ không những thành bàng quang bị phù nề xung huyết mà còn cả hiện tượng xung huyết dưới niêm mạc bàng quang. Hơn nữa bàng quang có hiện tượng tăng dung tích và mất nhậy cảm tương đối với áp lực của lượng nước tiểu trong bàng quang vì vậy phải theo dõi hiện tượng bí đái, hoặc đái sót nước tiểu sau đẻ. Tác dụng gây liệt cơ của thuốc mê, đặc biệt là gây tê tuỷ sống, rối loạn thần kinh chức năng tạm thời của bàng quang cũng là các yếu tố góp phần.
ứ nước tiểu và vi khuẩn niệu ở một bàng quang bị chấn thương cộng thêm bể thận và niệu quản bị giãn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng đường niệu sau đẻ phát triển. Bể thận và niệu quản bị giãn sẽ trở lại trạng thái bình thường sau đẻ từ 2 -8 tuần lễ.
2.7 Thay đổi ở vú:
Vú được phát triển mạnh sau khi đẻ, vú to lên lên, núm vú dài ra, tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, các tuyến sữa phát triển to lên để tiết sữa mà trên lâm sàng gọi là hiện tượng xuống sữa. Hiện tượng này thường xảy ra sau đẻ 2- 3 ngày, cơ chế của sự xuống sữa là: Sau đẻ nồng độ Estrogen tụt xuống đột ngột.
II. Những hiện tượng lâm sàng của thời kì hậu sản:
2.1. Sự co hồi tử cung:
Sau đẻ tử cung cao trên vệ khoảng 13cm, và trung bình mỗi ngày tử cung co hồi được 1cm, nên khoảng 12- 13 ngày sau đẻ không sờ được tử cung trên khớp vệ nữa. Sự co hồi tử cung phụ thuộc vào:
- Đẻ con so tử cung co hồi nhanh hơn đẻ con dạ.
- Tử cung đẻ thường co hồi nhanh hơn tử cung mổ đẻ.
- Những người cho con bú tử cung co hồi nhanh hơn người không cho con bú.
- Tử cung bị nhiễm khuẩn co hồi chậm hơn tử cung không bị nhiễm khuẩn.
Trên lâm sàng nếu tử cung co hồi chậm, sốt, ấn tử cung đau, sản dịch hôi, cần phải khám phát hiện nhiễm khuẩn tử cung để điều trị kịp thời.
2.2. Sản dịch:
Là dịch từ trong đường sinh dục mà chủ yếu là từ buồng tử cung chảy ra ngoài trong những ngày đầu thời kì hậu sản.
- Trong 3 ngày đầu sản dịch màu đỏ.
- Ngày thứ tư đến ngày thứ 8 sản dịch màu lờ lờ máu cá.
- Từ ngày thứ 8 trơ rddi sản dịch không có máu nữa mà chỉ là chất dịch trong.
Đặc điểm sản dịch có mùi tanh nồng. Nếu có nhiễm khuẩn sản dịch sẽ có mùi hôi hoặc có mủ. Số lượng sản dịch nhiều hay ít phụ thuộc vào từng sản phụ, nhưng thường nhiều trong 2 ngày đầu và ít dần cho đến ngày 15 sau đẻ thì hầu như không còn sản dịch nữa.
Trên lâm sàng khoảng 18- 20 ngày sau đẻ có khi ra một ít máu qua đường âm đạo, đó có thể là kinh non, do niêm mạc tử cung phục hồi sớm. Nếu sản dịch ra nhiều, kéo dài cần phải theo dõi sót rau.
2.3. Sự xuống sữa:
Dưới tác dụng của Prolactin sưa được bài tiết. Trên lâm sàng ta thấy:
- ở người đẻ con so xuống sữa vào ngày thứ 3, thứ tư sau đẻ.
- Người đẻ con dạ xuỗng sữa vào ngày thứ 2, thứ 3 sau đẻ.
Trên lâm sàng ta thấy: Vú căng tức các tuyến sữa phát triển nhiều, to, các tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, khó chịu, sốt nhẹ, T˚>38˚c, mạch nhanh, khi có sự xuống sữa thực sự thì các hiện tượng trên mất đi. Nếu đã xuống sưa mà vẫn sốt cần phải theo dõi nhiễm khuẩn ở tử cung, vú.
2.4. Các hiện tượng khác:
- Cơn rét run sau đẻ: Cần phân biệt với cơn rét run do choáng mất máu là sau đẻ có rét run nhưng kiểm tra mạch, huyết áp vẫn bình thường.
- Bí đái: do chuyển dạ kéo dài, ngôi thai đè vào bàng quang gây bí đái.
- Các hiện tượng khác về toàn thân: Mạch chậm lại sau 5-6 ngày mới trở lại bình thường. Nhịp thở chậm và sâu hơn, trọng lượng cơ thể giảm sút từ 3- 5kg, do sự bài tiết mồ hôi, nước tiểu, sản dịch trong 10 ngày đầu.
III. Chăm sóc hậu sản thường:
3.1. Chăm sóc ngay sau đẻ: trong 2 giờ đầu ngay sau khi đẻ cần theo dõi tình trạng toàn thân của mẹ để phát hiện sớm tình trạng choáng sản khoa hoặc choáng mất máu. Theo dõi mạch, HA, xoa đáy tử cung qua thành bụng đẻ xác định khối an toàn của tử cung sau đẻ, đánh giá lượng máu chảy ra ngoài âm đạo 15 phút 1 lần, ít nhất trong thời gian 1 giờ sau đẻ.
Cần phát hiện và xử trí kịp sớm đờ tử cung và chảy máu sau đẻ. Ngay sau khi đẻ, tử cung co chặt lại, đáy tử cung ở dưới rốn để tạo thành một khối an toàn tử cung. Nếu khám thấy mất khối an toàn, tử cung mềm, nhão hoặc tử cung to ra, đáy tử cung cao dần lên trên rốn là có máu đọng lại trong buồng tử cung. Cần đánh giá lượng máu sau đẻ. Nguyên nhân chảy máu sau đẻ có thể do sót rau, đờ tử cung hoặc chấn thương đường sinh dục. Máu có thể chảy ra ngoài qua âm đạo hoặc đọng lại trong buồng tử cung mà không chảy ra ngoài.
3.2 Chăm sóc về tinh thần: cuộc đẻ là một biến động lớn về giải phẫu và sinh lý của người phụ nữ, cũng là một biến động về tình cảm, cuộc sống của người phụ nữ. nhất là cuộc đẻ không theo ý muốn của người mẹ. Vì vậy, chăm sóc hậu sản cần phải được quan tâm một cách chu đáo về mọi mặt.
Động viên giải thích cho sản phụ yên tâm, không bận tâm lo lắng sau cuộc đẻ, đặc biệt là những cuộc đẻ không phù hợp với ý muốn của con người.
3.3. Đảm bảo những điều kiện vệ sinh tốt cho sản phụ:
Buồng điều trị phải sạch sẽ, yên tĩnh, thoáng mát phù hợp với từng mùa, phải có buồng điều trị cách ly cho những sản phụ bị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh truyền nhiễm, để tránh sự lây chéo giữa các sản phụ.
3.4. Theo dõi sát tình trạng toàn thân của sản phụ ngay từ những phút đầu sau đẻ;
Theo dõi sát mạch, HA, đặc biệt trong vòng 6h đầu sau đẻ để phát hiện tình trạng chảy máu để phát hiện kịp thời, tránh để diễn biến xấu cho sản phụ. Nói chung trong vòng 24h đầu phải đặc biệt chú ý theo dõi sự chảy máu, những ngày sau cần chú ý tới mạch, nhiệt độ để kịp thời phát hiện những nhiễm khuẩn sớm.
3.5. Theo dõi sự co hồi tử cung:
Hàng ngày sờ nắn đo chiều cao tử cung trên khớp vệ để đánh giá
- Sự co hồi tử cung tốt hay xấu.
- Mật độ tử cung chắc hay mềm.
- Tử cung đau hay không đau khi sờ nắn.
Nếu tử cung co hồi chậm, mật độ mềm, ấn đau là tử cung bị nhiễm khuẩn cần phải điều trị sớm.
3.6. Theo dõi sản dịch:
Hàng ngày theo dõi sản dịch bằng cách xem khố của sản dịch để đánh giá.
- Số lượng nhiều hay ít hoặc không có sản dịch ( bế sản dịch)
- Màu sắc: Đỏ trong 3 ngày đầu, ngày thứ tư đến ngày thứ 8 lờ lờ máu cá, sau đó hết máu mà chỉ có một chất dịch, đến ngày thứ 15 trở đi hầu như hết sản dịch.
- Mùi sản dịch không hôi , nếu hôi là có sự nhiễm khuẩn ở tử cung.
3.7. Phải làm thuốc tầng sinh môn và vùng âm hộ hàng ngày bằng cách:
- Rửa sạch vùng âm hộ, tầng sinh môn bằng nước chín, lau khô, đóng khố vô trùng. Tránh thụt rửa âm đạo vì làm như vậy cổ tử cung những ngày đầu sau đẻ chưa đóng, nước sẽ qua cổ tử cung vào tử cung gây ra nhiễm khuẩn ngược dòng từ ngoài vào.
3.8. Theo dõi đại, tiểu tiện:
Sau đẻ sản phụ thường bí đại, tiểu tiện do tình trạng liệt ruột hoặc giảm nhu động ruột, liệt cơ bàng quang. Nếu sau đẻ 12h mà sản phụ không tự đái được mặc dù đã điều trị nội khoa như: xoa vùng bàng quang, chườm nóng, châm cứu thì phải thông bàng quang, sau đó bơm vào bàng quang 5- 10ml dung dịch Glycerin borat 5% để nhằm kích thích sự co bóp của bàng quang.Nếu sản phụ táo bón cần cho thuốc nhuận tràng: dầu Parafin 20g. Để tránh táo bón nên khuyên sản phụ vận động sớm. Sau 3 ngày không đi ngoài, phải thụt tháo phân cho sản phụ.
3.9 Chăm sóc vú:
Luôn luôn giữ cho đầu vú, vú sạch sẽ, để tránh nhiễm khuẩn,nứt kẻ đầu vú.
Khuyên sản phụ cho trẻ bú sớm để kích thích bài tiết sữa và làm cho tử cung co hồi tốt ( do phản xạ đầu vú, tuyến vú ).
Nếu có hiện tượng tắc tia sữa,cần phải dùng mọi cách để thông ngay như: vắt sữa,hút sữa để đề phòng tắc tia sữa dẫn đến áp xe vú.
Nếu có nứt kẻ đầu vú: ngừng cho bú, rửa sạch đầu vú, thấm khô , bôi glyceron borat 5%.
3.10 Tắm rửa cho sản phụ:
Lau mình bằng nước ấm từ ngày thứ hai sau đẻ hoặc có thể tắm bằng cách dội nước, tránh tắm ở những nơi có gió lùa hoặc tắm bằng cách ngâm mình trong nước.
3.11 Chế độ ăn, mặc:
Ăn phải đủ chất đạm, glucid,lipid, muối khoáng và các vitamin, mục đích để nuôi dưỡng cơ thể tốt đảm bảo đủ sữa cho con bú, chỉ nên kiêng các chất kích thích như rượu, chè, càphê..
Quần áo mặc rộng rãi, sạch, không nên mặc quần áo quá chật.
3.12 Vấn đề giao hợp:
Cần phải tránh trong thời kỳ hậu sản.
1. Định nghĩa:
Khi có thai cơ quan sinh dục và vú phát triển dần, sau khi đẻ các cơ quan trên ( trừ vú) dần dần trở lại bình thường. Thời gian trở lại bình thường các cơ quan sinh dục về mặt giải phẫu và sinh lí gọi là thời kì hậu sản. Thời kì hậu sản về phương diện giải phẫu là sáu tuần lễ ( 42 ngày) kể từ sau khi đẻ vì những người không cho con bú kinh nguyệt có thể xuất hiện trở lại.
2. Thay đổi ở tử cung:
2.1 Thay đổi ở thân tử cung:
- Sau khi đẻ tử cung thay đổi rất rõ ràng, trên lâm sàng nhận thấy 3 hiện tượng:
- Sự co cứng tử cung sau sổ rau, tử cung co cứng để thực hiện tắc mạch sinh lí, trên lâm sàng tử cung co thành khối chắc gọi là khối an toàn.
- Sự co bóp tử cung trong những ngày đầu sau đẻ, tử cung có những cơn co bóp để tống sản dịch ra ngoài. Trên lâm sàng thỉnh thoảng sản phụ có cơn đau tử cung và sau mỗi cơn đau có ít máu cục và sản dịch chảy ra ngoài qua đường âm đạo.
- Sự co hồi tử cung: Ngay sau khi đẻ tử cung ở trên khớp vệ khoảng 13cm và cứ trung bình mỗi này tử cung co hồi được khoảng 1cm, nhưng trong những ngày đầu tử cung co hồi nhanh hơn và 13 ngày sau đẻ thường không sờ được tử cung trên khớp vệ nữa.
2.2 Thay đổi ở cơ tử cung:
Lớp cơ ở thân tử cung sau đẻ dày khoảng 1cm nhưng sau đó mỏng dần do sự đàn hồi của các sợi cơ, một số sợi cơ thoái hoá mỡ và tiêu đi.
2.3 Thay đổi ở phúc mạc tử cung và thành bụng:
Sau đẻ tử cung co nhỏ lại, lớp phúc mạc cũng co lại thành nhiều lớp nhăn, và những nếp nhăn này dần dần sẽ mất đi nhanh chóng vì phúc mạc co đi và teo lại.
ở thành bụng các vết rạn da vẫn còn tồn tại, các cơ thành bụng cũng co dần lại. Các cân và đặc biệt cân cơ thẳng to cũng co dần lại nhưng thành bụng vẫn nhão hơn so với khi chưa có thai, đặc biệt là ở những người đẻ nhiều lần, đẻ thai to, đa ối.
2.4 Thay đổi ở niêm mạc tử cung:
Niêm mạc tử cung sau đẻ sẽ diễn biến qua 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn thoái triển: Trong 14 ngày đầu sau đẻ, các ống tuyến và các sản bào thoát ra ngoài cùng với sản dịch.
+ Giai đoạn phát triển: Các tế bào trụ trong các đáy tuyến sẽ phát triển dưới ảnh hưởng của Estrogen và Progesteron, khoảng 6 tuần đầu để niêm mạc tử cung được tái tạo hoàn toàn và thực hiện chu kì kinh nguyệt đầu tiên sau đẻ.
2.5 Thay đổi ở các phần phụ âm đạo âm hộ:
- Các dây chằng tử cung, vòi trứng, buồng trứng sau khi đẻ dần dần trở lại bình thường về hướng, vị trí và độ dài.
- Âm hộ, âm đạo bị giãn căng trong khi đẻ cũng co dần lại vào khoảng 15 ngày sau đẻ trở lại bình thường.
- Màng trinh sau đẻ bị rách chỉ còn di tích của rìa màng trinh.
2.6 Thay đổi hệ tiết niệu:
Sau khi đẻ không những thành bàng quang bị phù nề xung huyết mà còn cả hiện tượng xung huyết dưới niêm mạc bàng quang. Hơn nữa bàng quang có hiện tượng tăng dung tích và mất nhậy cảm tương đối với áp lực của lượng nước tiểu trong bàng quang vì vậy phải theo dõi hiện tượng bí đái, hoặc đái sót nước tiểu sau đẻ. Tác dụng gây liệt cơ của thuốc mê, đặc biệt là gây tê tuỷ sống, rối loạn thần kinh chức năng tạm thời của bàng quang cũng là các yếu tố góp phần.
ứ nước tiểu và vi khuẩn niệu ở một bàng quang bị chấn thương cộng thêm bể thận và niệu quản bị giãn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng đường niệu sau đẻ phát triển. Bể thận và niệu quản bị giãn sẽ trở lại trạng thái bình thường sau đẻ từ 2 -8 tuần lễ.
2.7 Thay đổi ở vú:
Vú được phát triển mạnh sau khi đẻ, vú to lên lên, núm vú dài ra, tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, các tuyến sữa phát triển to lên để tiết sữa mà trên lâm sàng gọi là hiện tượng xuống sữa. Hiện tượng này thường xảy ra sau đẻ 2- 3 ngày, cơ chế của sự xuống sữa là: Sau đẻ nồng độ Estrogen tụt xuống đột ngột.
II. Những hiện tượng lâm sàng của thời kì hậu sản:
2.1. Sự co hồi tử cung:
Sau đẻ tử cung cao trên vệ khoảng 13cm, và trung bình mỗi ngày tử cung co hồi được 1cm, nên khoảng 12- 13 ngày sau đẻ không sờ được tử cung trên khớp vệ nữa. Sự co hồi tử cung phụ thuộc vào:
- Đẻ con so tử cung co hồi nhanh hơn đẻ con dạ.
- Tử cung đẻ thường co hồi nhanh hơn tử cung mổ đẻ.
- Những người cho con bú tử cung co hồi nhanh hơn người không cho con bú.
- Tử cung bị nhiễm khuẩn co hồi chậm hơn tử cung không bị nhiễm khuẩn.
Trên lâm sàng nếu tử cung co hồi chậm, sốt, ấn tử cung đau, sản dịch hôi, cần phải khám phát hiện nhiễm khuẩn tử cung để điều trị kịp thời.
2.2. Sản dịch:
Là dịch từ trong đường sinh dục mà chủ yếu là từ buồng tử cung chảy ra ngoài trong những ngày đầu thời kì hậu sản.
- Trong 3 ngày đầu sản dịch màu đỏ.
- Ngày thứ tư đến ngày thứ 8 sản dịch màu lờ lờ máu cá.
- Từ ngày thứ 8 trơ rddi sản dịch không có máu nữa mà chỉ là chất dịch trong.
Đặc điểm sản dịch có mùi tanh nồng. Nếu có nhiễm khuẩn sản dịch sẽ có mùi hôi hoặc có mủ. Số lượng sản dịch nhiều hay ít phụ thuộc vào từng sản phụ, nhưng thường nhiều trong 2 ngày đầu và ít dần cho đến ngày 15 sau đẻ thì hầu như không còn sản dịch nữa.
Trên lâm sàng khoảng 18- 20 ngày sau đẻ có khi ra một ít máu qua đường âm đạo, đó có thể là kinh non, do niêm mạc tử cung phục hồi sớm. Nếu sản dịch ra nhiều, kéo dài cần phải theo dõi sót rau.
2.3. Sự xuống sữa:
Dưới tác dụng của Prolactin sưa được bài tiết. Trên lâm sàng ta thấy:
- ở người đẻ con so xuống sữa vào ngày thứ 3, thứ tư sau đẻ.
- Người đẻ con dạ xuỗng sữa vào ngày thứ 2, thứ 3 sau đẻ.
Trên lâm sàng ta thấy: Vú căng tức các tuyến sữa phát triển nhiều, to, các tĩnh mạch dưới da vú nổi rõ, khó chịu, sốt nhẹ, T˚>38˚c, mạch nhanh, khi có sự xuống sữa thực sự thì các hiện tượng trên mất đi. Nếu đã xuống sưa mà vẫn sốt cần phải theo dõi nhiễm khuẩn ở tử cung, vú.
2.4. Các hiện tượng khác:
- Cơn rét run sau đẻ: Cần phân biệt với cơn rét run do choáng mất máu là sau đẻ có rét run nhưng kiểm tra mạch, huyết áp vẫn bình thường.
- Bí đái: do chuyển dạ kéo dài, ngôi thai đè vào bàng quang gây bí đái.
- Các hiện tượng khác về toàn thân: Mạch chậm lại sau 5-6 ngày mới trở lại bình thường. Nhịp thở chậm và sâu hơn, trọng lượng cơ thể giảm sút từ 3- 5kg, do sự bài tiết mồ hôi, nước tiểu, sản dịch trong 10 ngày đầu.
III. Chăm sóc hậu sản thường:
3.1. Chăm sóc ngay sau đẻ: trong 2 giờ đầu ngay sau khi đẻ cần theo dõi tình trạng toàn thân của mẹ để phát hiện sớm tình trạng choáng sản khoa hoặc choáng mất máu. Theo dõi mạch, HA, xoa đáy tử cung qua thành bụng đẻ xác định khối an toàn của tử cung sau đẻ, đánh giá lượng máu chảy ra ngoài âm đạo 15 phút 1 lần, ít nhất trong thời gian 1 giờ sau đẻ.
Cần phát hiện và xử trí kịp sớm đờ tử cung và chảy máu sau đẻ. Ngay sau khi đẻ, tử cung co chặt lại, đáy tử cung ở dưới rốn để tạo thành một khối an toàn tử cung. Nếu khám thấy mất khối an toàn, tử cung mềm, nhão hoặc tử cung to ra, đáy tử cung cao dần lên trên rốn là có máu đọng lại trong buồng tử cung. Cần đánh giá lượng máu sau đẻ. Nguyên nhân chảy máu sau đẻ có thể do sót rau, đờ tử cung hoặc chấn thương đường sinh dục. Máu có thể chảy ra ngoài qua âm đạo hoặc đọng lại trong buồng tử cung mà không chảy ra ngoài.
3.2 Chăm sóc về tinh thần: cuộc đẻ là một biến động lớn về giải phẫu và sinh lý của người phụ nữ, cũng là một biến động về tình cảm, cuộc sống của người phụ nữ. nhất là cuộc đẻ không theo ý muốn của người mẹ. Vì vậy, chăm sóc hậu sản cần phải được quan tâm một cách chu đáo về mọi mặt.
Động viên giải thích cho sản phụ yên tâm, không bận tâm lo lắng sau cuộc đẻ, đặc biệt là những cuộc đẻ không phù hợp với ý muốn của con người.
3.3. Đảm bảo những điều kiện vệ sinh tốt cho sản phụ:
Buồng điều trị phải sạch sẽ, yên tĩnh, thoáng mát phù hợp với từng mùa, phải có buồng điều trị cách ly cho những sản phụ bị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh truyền nhiễm, để tránh sự lây chéo giữa các sản phụ.
3.4. Theo dõi sát tình trạng toàn thân của sản phụ ngay từ những phút đầu sau đẻ;
Theo dõi sát mạch, HA, đặc biệt trong vòng 6h đầu sau đẻ để phát hiện tình trạng chảy máu để phát hiện kịp thời, tránh để diễn biến xấu cho sản phụ. Nói chung trong vòng 24h đầu phải đặc biệt chú ý theo dõi sự chảy máu, những ngày sau cần chú ý tới mạch, nhiệt độ để kịp thời phát hiện những nhiễm khuẩn sớm.
3.5. Theo dõi sự co hồi tử cung:
Hàng ngày sờ nắn đo chiều cao tử cung trên khớp vệ để đánh giá
- Sự co hồi tử cung tốt hay xấu.
- Mật độ tử cung chắc hay mềm.
- Tử cung đau hay không đau khi sờ nắn.
Nếu tử cung co hồi chậm, mật độ mềm, ấn đau là tử cung bị nhiễm khuẩn cần phải điều trị sớm.
3.6. Theo dõi sản dịch:
Hàng ngày theo dõi sản dịch bằng cách xem khố của sản dịch để đánh giá.
- Số lượng nhiều hay ít hoặc không có sản dịch ( bế sản dịch)
- Màu sắc: Đỏ trong 3 ngày đầu, ngày thứ tư đến ngày thứ 8 lờ lờ máu cá, sau đó hết máu mà chỉ có một chất dịch, đến ngày thứ 15 trở đi hầu như hết sản dịch.
- Mùi sản dịch không hôi , nếu hôi là có sự nhiễm khuẩn ở tử cung.
3.7. Phải làm thuốc tầng sinh môn và vùng âm hộ hàng ngày bằng cách:
- Rửa sạch vùng âm hộ, tầng sinh môn bằng nước chín, lau khô, đóng khố vô trùng. Tránh thụt rửa âm đạo vì làm như vậy cổ tử cung những ngày đầu sau đẻ chưa đóng, nước sẽ qua cổ tử cung vào tử cung gây ra nhiễm khuẩn ngược dòng từ ngoài vào.
3.8. Theo dõi đại, tiểu tiện:
Sau đẻ sản phụ thường bí đại, tiểu tiện do tình trạng liệt ruột hoặc giảm nhu động ruột, liệt cơ bàng quang. Nếu sau đẻ 12h mà sản phụ không tự đái được mặc dù đã điều trị nội khoa như: xoa vùng bàng quang, chườm nóng, châm cứu thì phải thông bàng quang, sau đó bơm vào bàng quang 5- 10ml dung dịch Glycerin borat 5% để nhằm kích thích sự co bóp của bàng quang.Nếu sản phụ táo bón cần cho thuốc nhuận tràng: dầu Parafin 20g. Để tránh táo bón nên khuyên sản phụ vận động sớm. Sau 3 ngày không đi ngoài, phải thụt tháo phân cho sản phụ.
3.9 Chăm sóc vú:
Luôn luôn giữ cho đầu vú, vú sạch sẽ, để tránh nhiễm khuẩn,nứt kẻ đầu vú.
Khuyên sản phụ cho trẻ bú sớm để kích thích bài tiết sữa và làm cho tử cung co hồi tốt ( do phản xạ đầu vú, tuyến vú ).
Nếu có hiện tượng tắc tia sữa,cần phải dùng mọi cách để thông ngay như: vắt sữa,hút sữa để đề phòng tắc tia sữa dẫn đến áp xe vú.
Nếu có nứt kẻ đầu vú: ngừng cho bú, rửa sạch đầu vú, thấm khô , bôi glyceron borat 5%.
3.10 Tắm rửa cho sản phụ:
Lau mình bằng nước ấm từ ngày thứ hai sau đẻ hoặc có thể tắm bằng cách dội nước, tránh tắm ở những nơi có gió lùa hoặc tắm bằng cách ngâm mình trong nước.
3.11 Chế độ ăn, mặc:
Ăn phải đủ chất đạm, glucid,lipid, muối khoáng và các vitamin, mục đích để nuôi dưỡng cơ thể tốt đảm bảo đủ sữa cho con bú, chỉ nên kiêng các chất kích thích như rượu, chè, càphê..
Quần áo mặc rộng rãi, sạch, không nên mặc quần áo quá chật.
3.12 Vấn đề giao hợp:
Cần phải tránh trong thời kỳ hậu sản.
Tags
kiến thức y học phổ thông kien thuc y hoc pho thong Hậu sản thường và cách chăm sóc hau san thuong va cach cham soc
Bài viết khác
- TRẺ HOÁ CỘT SỐNG (PHÒNG NGỪA- ĐIỀU TRỊ TOÀN DIỆN THOÁI HÓA CỘT SỐNG)
- NÂNG CAO SỨC ĐỀ KHÁNG ĐỂ GÓP PHẦN PHÒNG NHIỄM CÚM VIRUS CORONA BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN
- Sống không bệnh: liệu pháp 4T
- Tuần thứ 1 và 2 của thai kỳ
- Tuần thứ 3 của thai kỳ
- Tuần thứ 4 của thai kỳ
- Tuần thứ 5 của thai kỳ
- Tuần thứ 6 của thai kỳ
- Tuần thứ 7 của thai kỳ
- Tuần thứ 8 của thai kỳ